Chỉ số khối cơ thể (BMI) của ông Quang là 34.7 - béo phì độ một, kèm bệnh nền tăng huyết áp, rối loạn mỡ máu, đái tháo đường nhiều năm. Một tháng nay ông khó chịu vùng bụng, bác sĩ bệnh viện địa phương chẩn đoán phình động mạch chủ - chậu, chuyển đến Bệnh viện Đa khoa Tâm Anh TP HCM điều trị.
Ngày 15/8, TS.BS Nguyễn Anh Dũng, Trưởng khoa Ngoại Lồng ngực - Mạch máu, cho biết ông Quang không có triệu chứng đặc trưng của bệnh lý phình động mạch chậu như đau lưng, đau bụng dưới, đau bẹn. Với tổn thương phình động mạch chủ kích thước 45 mm thì chưa có chỉ định can thiệp. Tuy nhiên, động mạch chậu hai bên của ông phình gấp 5 lần bình thường, kích thước lớn nhất đến 40 mm trong khi bình thường chỉ 8-9 mm. "Nguy cơ khối phình này vỡ, lúc đó cơ hội cứu sống bệnh nhân chưa tới 10%", bác sĩ Dũng đánh giá.
Động mạch chủ bụng chia thành hai nhánh là động mạch chậu phải và trái, có nhiệm vụ cung cấp máu cho chi dưới, các cơ quan trong vùng chậu đùi. Phình động mạch chủ - chậu là tình trạng giãn bất thường khu trú của thành động mạch, lớn hơn đường kính bình thường của mạch máu ít nhất 50%. Bệnh lý này xảy ra khi cấu trúc thành mạch bị suy yếu, làm mất khả năng chịu áp lực dòng máu, dẫn đến phình giãn và tạo thành một túi phình.
Vùng thành mạch bị phình thường mỏng, yếu hơn so với thành mạch bình thường. Điều này làm tăng nguy cơ vỡ túi phình hoặc bóc tách mạch máu. Đây là biến chứng nguy hiểm có nguy cơ gây xuất huyết ồ ạt hoặc tắc mạch, đe dọa tính mạng người bệnh.
Theo bác sĩ Dũng, có hai phương pháp chính điều trị phình động mạch, bao gồm phẫu thuật mổ mở cắt bỏ túi phình hoặc can thiệp nội mạch đặt stent phủ để ngăn nguy cơ vỡ. Với bệnh nhân béo phì, nhiều bệnh nền như ông Quang, phẫu thuật gặp nhiều khó khăn do lớp mỡ dày, thời gian mổ lâu và mất máu nhiều. Việc đặt nội khí quản cũng dễ thất bại so với bình thường, làm tăng nguy cơ suy hô hấp, lâu hồi phục. Để giảm biến chứng, bác sĩ đặt stent có màng bọc bên ngoài (covered stent) thế hệ mới có tác dụng dẫn máu đi trong lòng stent, không cho máu thoát ra đi vào túi phình.

Bác sĩ Dũng (trái) cùng ê kíp đặt stent graft động mạch chậu cho bệnh nhân. Ảnh: Hạ Vũ
Ca thủ thuật diễn ra thuận lợi do mạch máu bệnh nhân không bị gập góc, xoắn vặn, không vôi hóa hay có huyết khối. Êkíp đặt được một stent graft hình chữ Y vào hai nhánh động mạch chậu trái - phải chặn nguy cơ tiến triển và vỡ túi phình, đồng thời tái tạo dòng chảy trơn tru đến hai chân. Ông Quang tỉnh táo trong suốt quá trình can thiệp, xuất viện sau một ngày, hết cảm giác khó chịu vùng bụng, ăn uống và sinh hoạt bình thường, cần tập luyện và duy trì uống thuốc đầy đủ để giảm nguy cơ hẹp, tắc stent.
Phình động mạch thường là hậu quả của nhiều yếu tố khác nhau, dẫn đến suy yếu thành mạch máu theo thời gian. Thủ phạm chính gây ra tình trạng này là quá trình xơ vữa mạch máu, tăng huyết áp, lối sống (hút thuốc lá, lạm dụng rượu bia, chế độ ăn uống không lành mạnh, ít vận động). Một số bệnh lý di truyền, như hội chứng Marfan và hội chứng Ehlers-Danlos, làm cho thành mạch yếu và dễ bị tổn thương hơn bình thường, tăng nguy cơ phình động mạch. Người bị chấn thương, nhiễm trùng mạch máu, viêm mạch máu cũng có khả năng bị phình động mạch.
Khám, tầm soát định kỳ giúp phát hiện sớm bệnh lý phình động mạch. Khi có biểu hiện đau ngực dữ dội và đột ngột, choáng váng, chóng mặt, đau bụng quanh rốn, nhịp tim nhanh..., cần đến bệnh viện ngay. Để giảm rủi ro mắc bệnh, hãy tránh xa thuốc lá, kiểm soát huyết áp và chỉ số cholesterol, duy trì lượng đường trong máu, giữ cân nặng khỏe mạnh, khám sức khỏe định kỳ.
Thu Hà
* Tên bệnh nhân đã được thay đổi
Độc giả gửi câu hỏi về bệnh tim mạch tại đây để bác sĩ giải đáp |