Bệnh tim do thấp (còn gọi là thấp tim) là một bệnh viêm cấp tính có tính chất toàn thân (có liên quan đến miễn dịch), chỉ xảy ra sau một hay nhiều đợt viêm họng do liên cầu bêta tan huyết nhóm A theo phân loại của Lancefield. Bệnh biểu hiện bằng một hội chứng bao gồm: viêm đa khớp, viêm tim, chorea, hạt dưới da, ban đỏ vòng. Bệnh thấp tim thường phát triển 2-4 tuần sau khi bị viêm đường hô hấp trên.
Bệnh thấp tim có các triệu chứng như viêm khớp, khó thở, hồi hộp, tim đập mạnh... nếu không được điều trị có thể gây suy tim mạn tính, thậm chí tử vong.
Nguyên nhân
Nguyên nhân gây bệnh thấp tim cho đến nay vẫn chưa được xác định rõ ràng. Theo các nhà khoa học, tình trạng nhiễm khuẩn do streptococcus ở họng, đường hô hấp trên là một trong những tác nhân quyết định. Sau thời kỳ viêm họng, bệnh sốt thấp thường xảy ra trong vòng hai tuần, là thời gian đủ cho kháng nguyên của vi khuẩn có thể hình thành kháng thể để chống lại nhiễm khuẩn.
Trong bệnh thấp tim, liên cầu khuẩn beta tan huyết nhóm A được chứng minh không trực tiếp gây tổn thương các cơ quan. Đa số nhà khoa học thống nhất về cơ chế gây bệnh là có sự trùng hợp rủi ro giữa chất có protein trên liên cầu khuẩn với protein của một số cấu trúc của cơ thể người như cấu trúc của van tim, các khớp, hệ thần kinh... Nếu bị nhiễm liên cầu khuẩn, cơ thể sẽ phản ứng lại bằng việc sinh ra kháng thể để chống lại vi khuẩn, từ đó gây ra triệu chứng bệnh.
Triệu chứng
Các dấu hiệu thường gặp của bệnh thấp tim bao gồm:
- Viêm khớp: Tình trạng này xảy ra ở hầu hết trường hợp, người bệnh chủ yếu bị viêm đau các khớp như gối, khuỷu tay, cổ tay, cổ chân. Các khớp viêm thường bị sưng, nóng, đau khiến vận động khó khăn, nhiều trường hợp có thể bị tràn dịch khớp. Các khớp viêm thường không đối xứng, có tính di chuyển, ví dụ khớp này lành thì triệu chứng viêm lại chuyển qua khớp khác. Thời gian viêm mỗi khớp thường dao động trong khoảng vài ngày, không quá 7 ngày, hiếm khi kéo dài quá 4 tuần, thường tự khỏi hoặc khỏi nhanh nếu dùng thuốc kháng Cácviêm, không để lại di chứng.
Các dấu hiệu thường gặp của bệnh thấp tim bao gồm:
- Viêm tim: Triệu chứng tùy thuộc vào ảnh hưởng các tổ chức màng ngoài tim, cơ tim, hoặc van tim. Khi viêm cơ tim diễn tiến, người bệnh có thể có triệu chứng suy tim như: mệt, khó thở, hồi hộp, cảm giác tim đập mạnh... Trường hợp viêm màng ngoài tim, người bệnh có triệu chứng đau ngực, thăm khám phát hiện tiếng cọ màng ngoài tim. Tổn thương trên van tim có thể được phát hiện qua siêu âm tim.
- Múa vờn: Xuất hiện trễ hơn sau viêm khớp và viêm tim, thường từ 6-8 tuần sau khi nhiễm liên cầu khuẩn. Múa vờn có thể kéo dài từ một tuần đến 2 năm nhưng thường kéo dài 8-15 tuần. Người bệnh có những biểu hiện vung tay chân một cách vô thức.
- Sang thương dưới da: Người bệnh có xuất hiện một số nút ban hồng hình vòng trên da, đặc biệt ở quanh khớp hoặc nổi dưới da, cứng và có đường kính 0,5-2 cm, tồn tại vài ngày đến vài tuần rồi biến mất.
- Các triệu chứng khác: Sốt trong đợt viêm cấp, nhiệt độ cơ thể 38-40 độ C. Ở những nơi dịch bệnh lưu hành, sốt thấp khớp được nghi ngờ ở 90% bệnh nhân có biểu hiện sốt. Tình trạng sốt giảm đi trong vòng một tuần và hiếm khi kéo dài trên 4 tuần.
Biến chứng
Bệnh thấp tim có thể gây ra các biến chứng như:
- Suy tim cấp hoặc rối loạn nhịp: trong giai đoạn bệnh cấp tính, người bệnh có thể sẽ bị ảnh hưởng do viêm cơ tim.
- Viêm khớp: Bệnh nhân thường bị đau ở khớp nhiều và có thể kèm theo sưng nóng đỏ, may mắn, dạng viêm khớp này thường không để lại di chứng nguy hiểm cho người bệnh, tuy nhiên người bệnh sẽ bị sưng đau, giảm chất lượng sống.
- Tổn thương thần kinh: Tổn thương hệ thống ngoại thần kinh gây biểu hiện múa giật, múa vờn là những ảnh hưởng đến não, nhưng các tổn thương trên não đa số lại hồi phục được và không để lại di chứng.
- Tổn thương van hai lá và van động mạch chủ có thể gây hở hoặc hẹp van: Tổn thương hẹp chủ đơn thuần ở bệnh nhân thấp tim hiếm gặp. Hở van ba lá thường do cơ năng kèm với bệnh lý van hai lá.
Điều trị
Sau khi được chẩn đoán bệnh thấp tim, người bệnh cần điều trị đồng thời về triệu chứng, nguyên nhân kết hợp dự phòng thấp tim bởi những điều này liên quan chặt chẽ với nhau.
Người bệnh có thể được điều trị bằng thuốc kháng sinh như penicillin G đường tiêm hoặc penicillin V đường uống. Trong trường hợp bệnh nhân dị ứng với penicillin, bác sĩ có thể thay thế bằng kháng sinh khác như erythromycin. Thuốc kháng viêm được chỉ định tùy theo mức độ tổn thương của khớp và tim.
Bên cạnh việc điều trị, việc kiểm soát bệnh dự phòng thấp khớp cấp rất quan trọng. Người bệnh cần được thăm khám, trao đổi với bác sĩ về kế hoạch, thực hiện ngay từ giai đoạn cấp của bệnh.
Khi bị thấp tim, bệnh nhân cần nghỉ ngơi tuyệt đối trong thời gian bệnh tiến triển, nên giữ ấm, ăn nhẹ. Với những bệnh nhân không có triệu chứng viêm cơ tim, thời gian nghỉ ngơi nên 2-3 tuần, còn đối với bệnh nhân có biểu hiện viêm cơ tim thời gian nghỉ ngơi cần nâng lên, ít nhất là 4 tuần. Với bệnh nhân có suy tim, nên nghỉ ngơi trong khoảng 8 tuần cho đến khi các triệu chứng của suy tim được cải thiện dần. Bệnh nhân cần tham khảo hướng dẫn của bác sĩ về chế độ vận động phù hợp.
Phòng ngừa
Bệnh thấp tim đến nay vẫn là gánh nặng cho bệnh nhân. Để phòng bệnh, mỗi người cần giữ môi trường sống sạch sẽ; vệ sinh răng miệng hằng ngày để tránh các bệnh về răng, viêm họng; giữ ấm vùng cổ, ngực, mũi họng trong mùa đông... Nếu bị viêm họng, viêm amidan hoặc viêm xoang cần đến các cơ sở y tế để điều trị triệt để.
![]() |
Bệnh nhân siêu âm tim kiểm tra sức khỏe tim mạch tại Bệnh viện Đa khoa Tâm Anh. Ảnh:Tâm Anh |
Bên cạnh đó, trẻ em và người trưởng thành đặc biệt là người cao tuổi nên tiêm chủng phòng các bệnh đường hô hấp. Trẻ 5-15 tuổi bị viêm họng kèm đau mỏi, sưng các khớp, tức ngực, hồi hộp và khó thở, đau vùng tim, có dấu hiệu bất thường về thần kinh vận động cần cho trẻ đến các cơ sở y tế có chuyên khoa tim mạch để được khám, điều trị kịp thời.
Người bệnh tim mạch cần được theo dõi sức khỏe và thăm khám định kỳ hàng năm, siêu âm tim kiểm tra, phát hiện sớm tổn thương, lập kế hoạch can thiệp, điều trị nếu cần thiết.
Hiện nay, bệnh thấp tim là nguyên nhân hàng đầu gây ra bệnh tim ở trẻ em và thanh niên dưới 40 tuổi sống ở các nước đang phát triển. Vì vậy để tránh những tổn thương do bệnh gây ra, khi có dấu hiệu bất thường, người bệnh cần đến ngay các cơ sở y tế để được thăm khám và điều trị kịp thời.
Các bài viết của VnExpress có tính chất tham khảo, không thay thế cho việc chẩn đoán hoặc điều trị y khoa.