Theo quy định tại khoản 1 Điều 230 Bộ luật Dân sự, người phát hiện tài sản do người khác đánh rơi, bỏ quên mà biết được địa chỉ của người đánh rơi hoặc bỏ quên thì phải thông báo hoặc trả lại tài sản cho người đó; nếu không biết địa chỉ của người đánh rơi hoặc bỏ quên thì phải thông báo hoặc giao nộp cho Uỷ ban nhân dân cấp xã hoặc công an cấp xã nơi gần nhất để thông báo công khai cho chủ sở hữu biết mà nhận lại.
Trường hợp chủ tài sản xin lại tài sản mà người nhặt được yêu cầu họ phải trả một khoản tiền để chuộc tài sản đó thì có thể bị truy cứu trách nhiệm hình sự về tội Cưỡng đoạt tài sản. Cụ thể, khoản 1 Điều 170 Bộ luật Hình sự năm 2015 (đã được sửa đổi, bổ sung) quy định người nào đe dọa sẽ dùng vũ lực hoặc có thủ đoạn khác uy hiếp tinh thần người khác nhằm chiếm đoạt tài sản, thì bị phạt tù từ 1 năm đến 5 năm.
Điều luật không quy định giá trị tài sản tối thiểu phải từ bao nhiêu trở lên nên chỉ cần có hành vi dùng vũ lực hoặc có thủ đoạn khác uy hiếp tinh thần người khác nhằm chiếm đoạt tài sản là đã cấu thành tội phạm (có tội).
Đối chiếu các quy định nói trên, việc anh của bạn đòi tiền chuộc và đã nhận số tiền 10 triệu là đã cấu thành tội Cưỡng đoạt tài sản và có thể bị truy cứu trách nhiệm hình sự theo quy định của pháp luật. Việc trả lại tiền cho chủ tài sản chỉ được coi là tình tiết giảm nhẹ hình phạt chứ không phải tình tiết làm thay đổi tội danh mà anh bạn đã phạm.
Trường hợp căn cứ hành vi phạm tội, hậu quả đã xảy ra, nhân thân người thực hiện hành vi cưỡng đoạt... mà cơ quan điều tra xét thấy chưa đến mức phải khởi tố thì hành vi đòi tiền chuộc có thể bị xử phạt hành chính theo quy định tại điểm e khoản 2 Điều 15 Nghị định 144/2021/NĐ-CP về hành vi"Cưỡng đoạt tài sản nhưng không bị truy cứu trách nhiệm hình sự" với mức tiền phạt từ 3 đến 5 triệu đồng.
Luật sư Vũ Tiến Vinh
Công ty Luật Bảo An, Hà Nội