Đầu tiên, cần xem xét nghĩa vụ của chủ thẻ trong quá trình sử dụng thẻ tín dụng. Căn cứ theo quy định tại khoản 2 Điều 17, Điều 18 Thông tư số 18/2024/TT-NHNN ngày 28/6/2024 như sau:
Chủ thẻ và cá nhân được chủ thẻ là tổ chức ủy quyền sử dụng thẻ phải bảo quản thẻ, bảo mật PIN, các mã số xác nhận chủ thẻ khác, các thông tin thẻ, thông tin giao dịch, không để lộ thông tin thẻ; thông báo và phối hợp với tổ chức phát hành thẻ để xử lý khi xảy ra các trường hợp mất thẻ hoặc có yêu cầu tra soát, khiếu nại (Điều 17).
Điều 18 quy định về việc xử lý trong trường hợp mất thẻ hoặc lộ thông tin thẻ như sau: "Khi mất thẻ hoặc lộ thông tin thẻ, chủ thẻ phải thông báo ngay cho tổ chức phát hành thẻ".
Còn đối với nghĩa vụ của tổ chức phát hành thẻ được quy định tại điểm c khoản 2 Điều 19 Thông tư số 18/2024/TT-NHNN ngày 28/6/2024 như sau:
Tổ chức phát hành thẻ phải thực hiện ngay các biện pháp để khóa thẻ khi chủ thẻ đề nghị do nghi ngờ có gian lận hoặc tổn thất và chịu trách nhiệm đối với toàn bộ tổn thất tài chính của khách hàng phát sinh sau thời điểm khách hàng đề nghị khóa thẻ.
Theo đó, nếu ngay sau khi mất thẻ bạn đã liên hệ ngay với ngân hàng để yêu cầu khóa thẻ mà sau đó vẫn phát sinh giao dịch mạo danh bạn thì bạn không phải chịu trách nhiệm đối với các giao dịch này.
Còn trong trường hợp của bạn thì sau khi mất thẻ bạn chưa thực hiện việc thông báo mà đến khi bạn phát hiện thẻ bạn bị phát sinh giao dịch, trừ tiền thì bạn mới tiến hành thông báo cho phía tổ chức phát hành biết. Trong trường hợp này bạn cũng có lỗi trong việc bảo quản thẻ và vi phạm nghĩa vụ thông báo ngay sau khi mất thẻ.
Vì vậy, việc phân định trách nhiệm của các bên được thực hiện trên cơ sở thương lượng với nhau về cách xử lý hậu quả theo quy định tại khoản 3 Điều 18 Thông tư 18/2024.
Bởi lẽ, tổ chức phát hành thẻ có nghĩa vụ, có biện pháp kiểm tra, đối chiếu, xác minh thông tin nhận biết khách hàng trong quá trình phát hành và sử dụng thẻ, bao gồm: biện pháp kiểm tra tính hợp pháp, hợp lệ và đối chiếu đảm bảo sự khớp đúng, chính xác của các tài liệu, thông tin, dữ liệu của khách hàng đã thu thập trong quá trình phát hành và sử dụng thẻ; biện pháp ngăn chặn các hành vi mạo danh, can thiệp, chỉnh sửa, làm sai lệch việc xác minh thông tin nhận biết khách hàng trong quá trình phát hành và sử dụng thẻ; biện pháp kỹ thuật, giải pháp công nghệ để đối chiếu khớp đúng thông tin sinh trắc học của khách hàng theo quy định tại điểm b khoản 1 Điều 10 và khoản 6 Điều 16 thông tư này. Biện pháp đảm bảo việc sử dụng thẻ được thực hiện bởi chính chủ thẻ. Các biện pháp khác do tổ chức phát hành quy định nhằm phòng, chống rủi ro gian lận, mạo danh, vi phạm pháp luật hoặc lợi dụng thẻ cho mục đích bất hợp pháp.
Đối với việc thương lượng này có xét đến những quy định, điều khoản trong hợp đồng phát hành thẻ. Tùy ngân hàng có những ngân hàng sẽ đồng ý không yêu cầu bạn thanh toán nhưng ngân hàng khác thì không.
Cho nên, trong trường hợp này ngân hàng xác nhận bạn không phải là người thụ hưởng tuy nhiên bạn cũng có lỗi trong việc bảo quản thẻ và không thông báo ngay sau khi mất thẻ dẫn đến kẻ gian mạo danh bạn sử dụng thì bạn và ngân hàng có thể thương lượng mỗi bên chịu một phần trong trường hợp ngân hàng không đồng ý miễn trừ cho bạn.
Hai là, nếu giữa bạn và tổ chức phát hành thẻ không thể thương lượng được thì bạn có thể gửi văn bản khiếu nại lên Ngân hàng Nhà nước để yêu cầu xác định lỗi và trách nhiệm của các bên;
Ba là, nếu việc khiếu nại vẫn không có kết quả thì bạn có thể khởi kiện ra tòa án yêu cầu Tòa án giải quyết.
Tóm lại, trong trường hợp của bạn có 3 phương án giải quyết: thương lượng với ngân hàng; khiếu nại đến Ngân hàng Nhà nước hoặc khởi kiện ra tòa án.
Luật sư Đặng Hoài Vũ
Trưởng văn phòng luật sư Đặng Hoài Vũ và đồng sự