Có hai câu chuyện về nông sản gần đây mà tôi thấy đáng suy gẫm. Một là có những người Nhật 'thà nhịn cơm chứ không ăn gạo nhập'. Và chuyện trái sầu riêng xuất khẩu bị trả về vì dư lượng hóa chất thì được đưa vào nội địa tiêu thụ. Một bên là niềm tin đến mức "bảo thủ" vào nông sản nội địa. Một bên là sự cảnh giác với chính hàng hóa do mình làm ra.
Hàng ngàn hộ dân miền Tây điêu đứng vì sầu riêng rớt giá. Thị trường xuất khẩu thắt chặt kiểm soát chất lượng, nhiều lô hàng bị trả về do dư lượng vàng O vượt ngưỡng. Và điều khiến nhiều người ái ngại là những trái sầu riêng này đang đi đâu.
Hệ quả là người tiêu dùng Việt bắt đầu cảnh giác. Có người sợ đến mức thấy hàng khuyến mãi là nghi ngờ hàng lỗi. Cái vòng luẩn quẩn ấy, làm ra không dám dùng, dùng thì không an tâm, khiến niềm tin vào nông sản nội địa vốn đã mong manh, nay càng thêm chông chênh.
Thế mới thấy, một quốc gia sản xuất nông nghiệp như Việt Nam lại có những nỗi sợ từ chính ruộng vườn của mình. Người nông dân thì chỉ mong bán được hàng, còn người tiêu dùng lại phải dè chừng từng trái sầu riêng, bó rau, con cá.
Ngược lại, ở Nhật, sự bảo thủ hay nói đúng hơn là niềm tin mãnh liệt vào nông sản bản địa, là một phần trong văn hóa tiêu dùng. Họ chọn gạo nội, dù đắt, dù hiếm. Họ phản đối mạnh mẽ gạo nhập giá rẻ hơn từ nước ngoài. Không chỉ vì vị ngon, mà còn vì muốn giữ lấy sinh kế bền vững cho người nông dân trong nước.
Ở Nhật, chất lượng nông sản là cam kết giữa người làm và người ăn. Còn ở ta, không ít khi nó là trò chơi đẩy rủi ro về phía người mua. Chính vì thế, khi hàng bị từ chối ở thị trường xuất khẩu, thì điều đầu tiên người tiêu dùng trong nước nghĩ đến là: Có nên ăn không?
Đây không còn là chuyện riêng của nông dân hay thương lái, mà là câu hỏi về lòng tin và trách nhiệm. Nếu muốn phát triển nông nghiệp bền vững, không thể dựa vào sự dễ dãi trong khâu tiêu thụ. Không thể mặc nhiên coi thị trường nội địa là nơi "giải cứu" hàng lỗi. Niềm tin không thể xây dựng bằng cách đem rủi ro từ nước ngoài đổ vào mâm cơm người Việt.
Nông dân Việt đã rất giỏi trong chuyện làm ra sản phẩm. Nhưng để bán được sản phẩm ấy cho chính đồng bào của mình, thì cần một hệ thống kiểm soát minh bạch, và hơn hết là một thái độ tử tế với người tiêu dùng. Khi nào người Việt còn phải dè chừng với hàng nội thì nông nghiệp Việt vẫn còn là một hành trình xa để tự tin bước ra thế giới.
Đừng để nội địa là nơi đón nhận hàng hóa bị từ chối ở nơi khác. Và cũng đừng để người Việt cứ phải ngần ngại với sản phẩm do chính người Việt làm ra. Khi niềm tin được dựng lại, không ai cần phải nhịn cơm để bảo vệ nông dân. Cả hai sẽ cùng sống khỏe, nhờ vào thứ duy nhất bền vững là chất lượng.
Quốc Hoàng