
Norris mừng chiến thắng trên podium Grand Prix Áo ngày 29/6. Ảnh: Reuters
Chiến thắng thứ ba từ đầu mùa giúp Norris thu hẹp cách biệt với Piastri còn 15 điểm ngay trước chặng đua sân nhà Grand Prix Anh vào cuối tuần tới. Sự thống trị của đội đua nước Anh thể hiện rõ, khi bộ đôi McLaren cán đích trước đối thủ gần nhất, Charles Leclerc tới 17 giây dù tay đua người Monaco của Ferrari xuất phát giữa hai tay đua McLaren. Nhờ tốc độ của chiếc MCL35, Piastri dễ dàng vượt Leclerc ngay từ những giây đầu tiên.
"Đây là kết quả hoàn hảo cho toàn đội. Chúng tôi khao khát chiến thắng kép như thế này, và chúng tôi đã làm được điều đó một lần nữa, nên tôi rất vui. Cuộc đua tranh với Oscar thật sự vui và cũng rất căng thẳng", Norris nói sau khi về nhất tại Red Bull Ring.
Chiến thắng hôm qua càng thêm quan trọng với McLaren khi đối thủ nguy hiểm nhất - Verstappen - phải bỏ cuộc sớm vì va chạm với tân binh đội Mercedes Kim Antonelli ngay tại vòng đầu. Tay đua trẻ người Italy phải xin lỗi Verstappen ngay trên sóng radio sau khi gây ra va chạm. Sau chặng đua, Antonelli còn bị phạt hạ ba bậc xuất phát ở chặng đua kế tiếp.
Với Verstappen, thất bại ngay tại chặng đua sân nhà như xát thêm muối vào nỗi đau sau vòng phân hạng thảm họa chiều thứ Bảy, khi chiếc RB21 chỉ giành quyền xuất phát thứ 7. Sau Grand Prix Áo, Verstappen đã kém Piastri tới 61 điểm. Nếu không có cải tiến lớn nào trên chiếc RB21 ở nửa cuối mùa giải, tay đua của Red Bull gần như tan mộng vô địch thế giới 5 mùa liên tiếp.

Verstappen (phải) nhìn chiếc RB21 được cẩu khỏi đường đua sau va chạm với Antonelli. Ảnh: Reuters
Trái ngược với đà đi xuống của Red Bull, McLaren chiến đấu tưng bừng từ những giây đầu. Sự phối hợp tốt của đội nhà giúp Piastri chớp thời cơ vượt qua Leclerc ngay tại góc cua đầu tiên, rồi bứt tốc áp sát đồng đội Norris. Tới góc cua số 3, gần như hai chiếc MCL35 chạy ngang hàng với nhau. Tuy nhiên, nhờ chiếm làn đường thuận lợi khi vào cua, Norris vẫn giữ được vị trí trước sự tấn công của Piastri.
Sau nhiều vòng bám sát, tới vòng 11 Piastri quyết định tấn công người đồng đội khi Norris mắc loạt sai lầm tại các góc cua số 9 và 10 ở vòng đua trước đó. Núp gió trên đoạn đường thẳng, tới Turn 3, Piastri đã vượt được người đồng đội. Nhưng Norris phản ứng nhanh, tăng tốc để vượt lại Piastri ngay góc cua kế tiếp.
Thất bại trong những nỗ lực tấn công ở đầu cuộc đua, Piastri đành lui lại phía sau chờ tìm cơ hội khác. Tới vòng 20, va chạm suýt xảy ra giữa hai chiếc MCL35 khi nỗ lực lách trong của Piastri tại Turn 4 khiến anh suýt đâm vào đuôi xe của Norris khi phanh bị kẹt. Lãnh đội Andrea Stella thở phào sau tình huống thót tim giữa hai tay đua nhà.
Lợi thế dẫn đầu giúp Norris được về pit thay lốp trước ở cuối vòng 20. Piastri mãi tới vòng 23 mới về thay lốp. Khi trở lại đường đua, tay đua người Australia kém người đồng đội tới gần 6 giây. Từ lúc này, Norris gần như làm chủ cuộc đua và kiểm soát được tốc độ thi đấu của đoàn xe. Dù vậy, sau khi hai tay đua của McLaren về pit lần hai ở vòng 53 và 54, tình hình dần bất lợi cho Norris.

Hai chiếc McLaren dẫn đầu trên đường đua Red Bull Ring trong cuộc đua chính Grand Prix Áo ngày 29/6. Ảnh: Reuters
Dù có màn thay lốp khá ấn tượng, khi hai tay đua hoàn thành, Norris chỉ còn hơn đồng đội 4 giây. Khi cuộc đua chỉ còn 10 vòng, Piastri kém Norris chưa đầy 2 giây sau nhiều vòng liên tục bứt tốc và thu hẹp khoảng cách. Lúc này, Norris thậm chí còn lo lắng, phải trao đổi với kỹ sư cuộc đua Will Joseph trước tốc độ ấn tượng của Piastri.
Tuy nhiên, ở các vòng cuối, việc liên tục bị vướng chân bởi những chiếc xe bị bắt vòng khiến Piastri không có không gian thoải mái để bứt tốc. Sao trẻ người Australia thậm chí suýt còn thót tim khi chiếc xe bị bắt vòng của Franco Colapinto (Alpine) ép chiếc MCL35 văng ra bãi cỏ. Tay đua người Argentina bị phạt 5 giây khi cuộc đua kết thúc do ép Piastri văng ra lề.
Dù vậy, Piastri không quá nuối tiếc khi vuột mất chiến thắng. "Tôi đã cố hết sức nhưng lẽ ra, vẫn có thể làm tốt hơn. Đây vẫn là một trận chiến tuyệt vời, đôi khi hơi quá khích. Có lẽ giới hạn đã bị đẩy đi quá xa, nhưng đây là một cuộc đua tốt và đó là lý do chúng tôi ở đây, đua với nhau và cố gắng chiến đấu để giành chiến thắng cho bản thân", tay đua Australia nói.
Kết quả Grand Prix Áo
Thứ tự |
Tay đua |
Đội |
Vị trí xuất phát |
Số lần về pit |
Fastest lap cá nhân |
Thành tích |
Điểm |
1 |
Lando Norris |
McLaren |
1 |
2 |
1 phút 08,272 giây |
1 giờ 23 phút 47,693 giây |
25 |
2 |
Oscar Piastri |
McLaren |
3 |
2 |
1:07,924 |
+2,695 giây |
18 |
3 |
Charles Leclerc |
Ferrari |
2 |
2 |
1:08,765 |
+19,820 |
15 |
4 |
Lewis Hamilton |
Ferrari |
4 |
2 |
1:08,628 |
+29,020 |
12 |
5 |
George Russell |
Mercedes |
5 |
2 |
1:09,372 |
+62,396 |
10 |
6 |
Liam Lawson |
RB |
6 |
1 |
1:09,977 |
+67,754 |
8 |
7 |
Fernando Alonso |
Aston Martin |
11 |
1 |
1:09,935 |
+1 vòng |
6 |
8 |
Gabriel Bortoleto |
Sauber |
8 |
2 |
1:09,247 |
+1 vòng |
4 |
9 |
Nico Hulkenberg |
Sauber |
20 |
2 |
1:09,459 |
+1 vòng |
2 |
10 |
Esteban Ocon |
Haas |
17 |
2 |
1:09,550 |
+1 vòng |
1 |
11 |
Oliver Bearman |
Haas |
15 |
2 |
1:09,960 |
+1 vòng |
|
12 |
Isack Hadjar |
RB |
13 |
2 |
1:10,204 |
+1 vòng |
|
13 |
Pierre Gasly |
Alpine |
10 |
2 |
1:10,151 |
+1 vòng |
|
14 |
Lance Stroll |
Aston Martin |
16 |
2 |
1:09,214 |
+1 vòng |
|
15 |
Franco Colapinto |
Alpine |
14 |
2 |
1:09,621 |
+1 vòng |
|
16 |
Yuki Tsunoda |
Red Bull |
18 |
3 |
1:09,802 |
+1 vòng |
|
17 |
Alexander Albon |
Williams |
12 |
2 |
1:10,641 |
+1 vòng |
|
18 |
Max Verstappen |
Red Bull |
7 |
- |
Bỏ dở cuộc đua |
||
19 |
Kimi Antonelli |
Mercedes |
9 |
- |
Bỏ dở cuộc đua |
||
20 |
Carlos Sainz Jnr |
Williams |
19 |
- |
Bỏ dở cuộc đua |
Bảng điểm cá nhân sau 11 chặng
Thứ tự |
Tay đua |
Đội |
Số lần thắng chặng |
Số lần thắng Sprint |
Điểm số |
1 |
Oscar Piastri |
McLaren |
5 |
216 |
|
2 |
Lando Norris |
McLaren |
3 |
1 |
201 |
3 |
Max Verstappen |
Red Bull |
2 |
155 |
|
4 |
George Russell |
Mercedes |
1 |
146 |
|
5 |
Charles Leclerc |
Ferrari |
119 |
||
6 |
Lewis Hamilton |
Ferrari |
1 |
91 |
|
7 |
Kimi Antonelli |
Mercedes |
63 |
||
8 |
Alexander Albon |
Williams |
42 |
||
9 |
Esteban Ocon |
Haas |
23 |
||
10 |
Nico Hulkenberg |
Sauber |
22 |
||
11 |
Isack Hadjar |
Racing Bulls |
21 |
||
12 |
Fernando Alonso |
Aston Martin |
14 |
||
13 |
Lance Stroll |
Aston Martin |
14 |
||
14 |
Carlos Sainz Jnr |
Williams |
13 |
||
15 |
Liam Lawson |
Racing Bulls |
12 |
||
16 |
Pierre Gasly |
Alpine |
11 |
||
17 |
Yuki Tsunoda |
Red Bull |
10 |
||
18 |
Oliver Bearman |
Haas |
6 |
||
19 |
Gabriel Bortoleto |
Sauber |
4 |
||
20 |
Franco Colapinto |
Alpine |
|||
21 |
Jack Doohan |
Alpine |
Bảng điểm đội đua sau 11 chặng
Thứ tự |
Đội |
Số lần thắng chặng |
Số lần thắng Sprint |
Điểm số |
1 |
McLaren |
8 |
1 |
417 |
2 |
Ferrari |
1 |
210 |
|
3 |
Mercedes |
1 |
209 |
|
4 |
Red Bull |
2 |
162 |
|
5 |
Williams |
55 |
||
6 |
Racing Bulls |
36 |
||
7 |
Haas |
20 |
||
8 |
Aston Martin |
28 |
||
9 |
Sauber |
26 |
||
10 |
Alpine |
11 |
Minh Phương