Nghị quyết 57 của Bộ Chính trị về phát triển khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số quốc gia đã đề ra các cơ chế đặc thù, trong đó có việc cho phép thí điểm các cơ chế, chính sách mới để thúc đẩy sự phát triển của lĩnh vực này.
Tại hội nghị tuần qua, Bộ trưởng Tài chính Nguyễn Văn Thắng cho biết cơ chế hợp tác giữa tư nhân và Nhà nước được quy định trong Luật Đầu tư theo phương thức đối tác công tư (PPP). Tuy nhiên, quy định chưa đủ cơ sở để triển khai hiệu quả mô hình này trong lĩnh vực khoa học công nghệ. Lý do là thiếu cơ chế linh hoạt, quy trình phức tạp, chưa có ưu đãi phù hợp và niềm tin của các nhà đầu tư tư nhân ít được củng cố.
Thực hiện Nghị quyết 57, Chính phủ đã giao Bộ Tài chính chủ trì xây dựng Nghị định nhằm tháo gỡ điểm nghẽn thể chế, mở rộng không gian hợp tác công - tư, huy động hiệu quả nguồn lực cho phát triển các lĩnh vực chiến lược này.
"Bộ Tài chính xác định đây là nhiệm vụ quan trọng, cấp bách để đưa khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số thực sự trở thành động lực trung tâm của tăng trưởng kinh tế và phát triển bền vững đất nước", Bộ trưởng nói.

Bộ trưởng Tài chính Nguyễn Văn Thắng tại hội nghị. Ảnh: MOF
Theo ông Phạm Thi Hùng - Phó Cục trưởng Cục Quản lý đấu thầu (Bộ Tài chính), tại dự thảo Nghị định cơ chế, chính sách hợp tác công tư trong khoa học công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số, Bộ Tài chính đề xuất nhiều cơ chế vượt trội để phát triển lĩnh vực này.
Cụ thể, dự thảo Nghị định mở rộng định nghĩa hợp tác công - tư, đưa thêm nhiều hình thức ngoài Luật PPP, bổ sung ưu đãi vượt trội và phân cấp mạnh mẽ để đảm bảo tính linh hoạt, phù hợp đặc thù. Việc lựa chọn nhà đầu tư cũng được mở rộng với các hình thức như chỉ định, đấu thầu rộng rãi, đàm phán cạnh tranh và lựa chọn trong trường hợp đặc biệt. Trong đó, mở rộng trường hợp áp dụng chỉ định nhà đầu tư cho các dự án đảm bảo yêu cầu an ninh quốc phòng.
Dự thảo cũng đề cập tới cơ chế chia sẻ rủi ro - yếu tố quan trọng để thu hút nhà đầu tư tư nhân tham gia. Cụ thể, trong 3 năm đầu vận hành, nếu doanh thu của nhà đầu tư thấp hơn so với phương án tài chính đã được phê duyệt thì Nhà nước sẽ bù 100% phần chênh lệch. Nếu doanh thu giảm sâu dưới 50%, nhà đầu tư có thể chấm dứt hợp đồng và được Nhà nước thanh toán toàn bộ chi phí đã đầu tư.
Về quy trình, nghị định đơn giản hóa tối đa, phù hợp đặc thù dự án khoa học công nghệ. Cụ thể, về thẩm quyền phê duyệt đề án, hiện Luật Quản lý, sử dụng tài sản công giao cho Bộ trưởng, thủ trưởng cơ quan ngang bộ và Chủ tịch UBND tỉnh. Trong nghị định này, thẩm quyền được phân cấp xuống cho thủ trưởng các đơn vị sự nghiệp công lập. Không chỉ vậy, các doanh nghiệp nhà nước cũng được áp dụng hình thức liên kết này.
Các cơ chế hỗ trợ, ưu đãi cũng được bổ sung. Theo Luật PPP, tỷ lệ vốn nhà nước tham gia dự án được nâng lên tối đa 70%. Ngoài ra, có hỗ trợ kinh phí cho các quỹ phát triển khoa học công nghệ.
Một trong những vướng mắc lớn nhất trước đây là việc định giá tài sản công. Nghị định bổ sung quy định cho phép người đứng đầu đơn vị sự nghiệp tự xác định giá trị tài sản, đồng thời rút gọn quy trình lấy ý kiến phê duyệt đề án, giảm thời gian từ 30 ngày xuống còn 15 ngày, tiết kiệm khoảng 80% thời gian.
Về lựa chọn đối tác liên kết, nếu đã có sẵn đối tác phù hợp, đơn vị có thể đàm phán trực tiếp mà không cần thực hiện thủ tục lựa chọn nhà đầu tư phức tạp.
Về chính sách hỗ trợ của Nhà nước, tổ chức khoa học công nghệ, đơn vị sự nghiệp công lập và doanh nghiệp nhà nước được miễn nộp tối thiểu 2% doanh thu để nghiên cứu, phát triển công nghệ chiến lược hoặc hoạt động hợp tác đào tạo nguồn nhân lực. Riêng lĩnh vực khoa học công nghệ và đổi mới sáng tạo được miễn toàn bộ phần nộp này.
Dự thảo nghị định cũng quy định các hình thức hợp tác công tư khác ngoài Luật PPP và việc sử dụng tài sản công, ví dụ như hợp tác ba bên giữa nhà nước, nhà trường và doanh nghiệp. Trong hình thức này, cơ quan nhà nước cung cấp cơ sở hạ tầng, đất đai, vốn đầu tư, bảo đảm quyền sở hữu trí tuệ, ban hành chính sách đặc thù và giữ vai trò điều phối chiến lược. Các tổ chức khoa học công nghệ, cơ sở giáo dục, đơn vị sự nghiệp công lập thực hiện nghiên cứu, còn doanh nghiệp cung cấp tri thức, dữ liệu và nguồn nhân lực.
Một loại hợp tác khác là hợp tác nghiên cứu và phát triển giữa cơ quan nhà nước, tổ chức khoa học công nghệ, đơn vị sự nghiệp công lập, doanh nghiệp nhà nước và doanh nghiệp tư nhân. Theo ý kiến từ phía TP HCM, các tổ chức quốc tế như Ngân hàng Thế giới hay ADB cũng có thể tham gia đầu tư và tài trợ cho hoạt động nghiên cứu phát triển này.
Một hình thức khác là hợp tác đổi mới sáng tạo, áp dụng cho các chương trình, nhiệm vụ nghiên cứu phát triển có tính đột phá cao nhưng mức độ rủi ro lớn, thời gian thực hiện dài và chưa chắc khả năng thương mại hóa ngay. Hình thức này phù hợp với những công nghệ mới chưa rõ tương lai nhưng có tiềm năng tạo ra thay đổi căn bản trong phát triển công nghệ và sản xuất.
Ngoài ra, còn có hình thức hợp tác theo hướng tài trợ nghiên cứu. Trong đó, nhà nước và tư nhân có thể tài trợ các hoạt động nghiên cứu khoa học công nghệ, phát triển hệ sinh thái đổi mới sáng tạo, khởi nghiệp sáng tạo, trung tâm đổi mới sáng tạo với doanh nghiệp và công cụ nghiên cứu phát triển chung.
Về nguồn tài chính, ngoài ngân sách nhà nước, các quỹ khoa học công nghệ, dự thảo cũng quy định rõ cơ chế tài trợ nghiên cứu, khuyến khích đóng góp từ các tổ chức, cá nhân và doanh nghiệp tư nhân. Ngoài ra, các tổ chức quốc tế như WB, ADB cũng có thể tham gia đồng tài trợ cho các dự án nghiên cứu, đổi mới sáng tạo có tiềm năng thương mại hóa cao.
Dự kiến Nghị định này sẽ được ban hành trong tháng 6 và có hiệu lực thi hành từ ngày 1/7.
Phương Dung