
Norris về nhất trên đường đua Hungaroring ngày 3/8. Ảnh: AP
Trên đường đua Hungaroring, bộ đôi McLaren phải xuất phát sau chiếc SF-25 của thành viên Ferrari, Charles Leclerc. Dù vậy, như thường lệ, giới chuyên môn vẫn dự báo Norris và đồng đội Oscar Piastri sẽ xử gọn tay đua người Monaco ngay từ những vòng đầu. Nhưng thực tế trái ngược, khi khó khăn từ lúc xuất phát tưởng chừng khiến McLaren vô vọng trong việc kiếm tìm chiến thắng.
Sự cạnh tranh nội bộ giữa Piastri và Norris khi xuất phát khiến chiếc MCL39 chạy sau bị đẩy vào làn đường bất lợi, tụt xuống thứ năm sau cả George Russell (Mercedes) và Fernando Alonso (Aston Martin). Piastri cũng suýt bị Russell chiếm vị trí thứ hai. Trong khi đó, ở phía trên Leclerc tỏ ra vững vàng một cách đầy bất ngờ.
Chiếc SF-25 liên tiếp lập fastest-lap ở những vòng đầu để nới dần khoảng cách với Piastri. Dù tay đua McLaren nỗ lực bám đuổi, khoảng cách giữa Piastri với Leclerc sớm được gia tăng lên mức gần 3 giây chỉ sau vài vòng đua. Nhận thấy tốc độ ổn định của chiếc SF-25, McLaren chủ động về pit sớm để tìm cách nhảy cóc qua đối thủ.
Khi Piastri về thay lốp tại vòng 18, Ferrari phản ứng bằng cách đưa Leclerc về pit ở vòng kế tiếp để ngăn đối thủ vượt qua. Ở phía sau, Norris sớm xử lý gọn Alonso để vươn lên thứ tư. Loay hoay trong việc vượt qua Russell, Norris buộc phải chuyển hướng bằng cách về thay lốp muộn để có lợi thế tấn công đối thủ. Lúc này, vị trí dẫn đầu tạm thời vào tay Norris.
Mãi đến vòng 31 Norris mới về thay lốp, muộn hơn các đối thủ chính tới 12 vòng. Sự thuận lợi và tốc độ ổn định đáng kinh ngạc của chiếc MCL39 khiến Norris chuyển hẳn sang chiến thuật 1 pit thay vì 2 pit như các đối thủ. Lãnh đội Andrea Stella cho biết ban đầu McLaren không chắc liệu họ có thể thực hiện trọn vẹn chiến thuật, nhưng sự cân bằng giữa tốc độ và việc quản lý lốp đã giúp Norris có thể về đích khi chạy suốt 39 vòng đua cuối với bộ lốp cứng.
Chiến thuật thú vị của người đồng đội Norris khiến Piastri vốn xuất phát trước lại bất ngờ thất thế và tụt xuống thứ ba. Tay đua Australia trao đổi với các chỉ đạo viên rằng anh muốn có chiến thuật phù hợp để có cơ hội đánh bại Norris, và nói không quan tâm đến Ferrari. Tuy nhiên, nỗ lực của Piastri sau đó bất thành và tay đua trẻ thua trong cuộc chiến trị giá 14 điểm này.
Việc về pit sớm khiến Leclerc phải về thay lốp lần thứ hai ở vòng 40, trong khi Piastri đợi thêm 5 vòng để có được lợi thế bám đường tối đa so với Norris. Khi hoàn thành thay lốp lần cuối, Piastri dễ dàng thu hẹp khoảng cách và sớm vượt qua Leclerc ở vòng 51 để lên thứ nhì. Khoảng cách 9 giây giữa hai tay đua của McLaren dần thu hẹp bị thu hẹp về cuối khi Norris phải tập trung giữ lốp.

Leclerc trên đường đua Hungaroring. Ảnh: Scuderia Ferrari
Khi cuộc đua chỉ còn tầm 5 vòng đua, Piastri chỉ còn kém đàn anh chưa đầy 1 giây. Dù vậy, hàng loạt pha tấn công liều lĩnh vẫn không thể giúp Piastri vượt đối thủ trên đường đua Hungaroring nổi tiếng khó vượt. Thậm chí, hai xe của McLaren còn suýt lao vào nhau tại vòng áp chót sau pha vượt ẩu của Piastri.
Sau chặng đua, Norris thừa nhận trải qua muôn vàn khó khăn. Anh nói: "Tôi mệt chết mất. Thật khó khăn. Ban đầu, chúng tôi không chủ động với chiến thuật 1 pit. Nhưng sau vòng đầu, đó gần như là lựa chọn duy nhất để chúng tôi tiếp tục cuộc đua tới ngôi nhất. Tôi đã phải nỗ lực hết sức trong cuộc đua với Oscar ở cuối chặng. Thật đáng khen ngợi và kết quả hôm nay thực sự rất hoàn hảo."
Piastri thì thừa nhận cuộc đua sớm khó khăn từ khi anh biết Norris dùng chiến thuật 1 pit. "Lúc đó, tôi hiểu mình phải vượt qua anh ấy, điều rất khó thực hiện tại Hungaroring. Hôm nay, chúng tôi đã đi sai hướng. Lando vốn không có nhiều thứ để mất. Tôi không biết liệu tập trung đối phó với Leclerc có phải là quyết định đúng đắn hay không, nhưng chúng tôi phải xem xét để rút kinh nghiệm", anh nói thêm.
Trong khi đó, trái ngược với bầu không khí hân hoan tại McLaren. Khu vực kỹ thuật của Ferrari lại tràn ngập sự thất vọng và không khí nghi ngờ trong nội bộ. Khởi đầu cuộc đua rất thuận lợi, việc dần tụt lại ở nửa cuối cuộc đua làm Lerclerc buồn rầu. Tay đua người Monaco thậm chí còn mất vị trí trong top 3 khi bị Russell vượt ở cuối cuộc đua và bị phạt 5 giây do phòng thủ sai luật khi ngăn tay đua Mercedes vượt lên.

Lerclerc thất vọng sau khi chỉ về thứ tư Grand Prix Hungary. Ảnh: Scuderia Ferrari
Ngay sau khi bị các đối thủ vượt, qua sóng radio, Leclerc lập tức chỉ trích các chỉ đạo viên đội nhà đã không lắng nghe phản hồi của anh, khiến cuộc đua sụp đổ nhanh chóng. Tuy nhiên, sau chặng đua, Ferrari khẳng định trục trặc kỹ thuật trên chiếc SF-25 ở nửa cuối cuộc đua khiến Grand Prix Hungary thành thảm họa với Leclerc.
Cùng Ferrari, Red Bull cũng có một chặng đua không vui. Max Verstappen chỉ xuất phát thứ 8 và về đích thứ 9 sau khi bất lực trong việc vượt qua chiếc Racing Bulls của đồng đội cũ Liam Lawson. Khoảng cách giữa Verstappen và vị trí dẫn đầu trên bảng xếp hạng cá nhân đã lên tới 97 điểm.
Kết quả Grand Prix Hungary
Thứ tự |
Tay đua |
Đội |
Vị trí xuất phát |
Số lần về pit |
Fastest lap cá nhân |
Thành tích |
Điểm |
1 |
Lando Norris |
McLaren |
3 |
1 |
1 phút 19,918 giây |
1 giờ 25 phút 22,601 giây |
25 |
2 |
Oscar Piastri |
McLaren |
2 |
2 |
1:19,412 |
+0,698 giây |
18 |
3 |
George Russell |
Mercedes |
4 |
2 |
1:19,409 |
+21,916 |
15 |
4 |
Charles Leclerc |
Ferrari |
1 |
2 |
1:20,448 |
+42,560 |
12 |
5 |
Fernando Alonso |
Aston Martin |
5 |
1 |
1:20,113 |
+59,040 |
10 |
6 |
Gabriel Bortoleto |
Sauber |
7 |
1 |
1:20,705 |
+66,169 |
8 |
7 |
Lance Stroll |
Aston Martin |
6 |
1 |
1:20,708 |
+68,174 |
6 |
8 |
Liam Lawson |
Racing Bulls |
9 |
1 |
1:20,457 |
+69,451 |
4 |
9 |
Max Verstappen |
Red Bull |
8 |
2 |
1:19,576 |
+72,645 |
2 |
10 |
Kimi Antonelli |
Mercedes |
15 |
1 |
1:20,745 |
+1 vòng |
1 |
11 |
Isack Hadjar |
Racing Bulls |
10 |
1 |
1:20,802 |
+1 vòng |
|
12 |
Lewis Hamilton |
Ferrari |
12 |
1 |
1:20,022 |
+1 vòng |
|
13 |
Nico Hulkenberg |
Sauber |
18 |
2 |
1:20,013 |
+1 vòng |
|
14 |
Carlos Sainz Jnr |
Williams |
13 |
2 |
1:19,790 |
+1 vòng |
|
15 |
Alexander Albon |
Williams |
19 |
2 |
1:20,779 |
+1 vòng |
|
16 |
Esteban Ocon |
Haas |
17 |
1 |
1:21,916 |
+1 vòng |
|
17 |
Yuki Tsunoda |
Red Bull |
20 |
2 |
1:21,180 |
+1 vòng |
|
18 |
Franco Colapinto |
Alpine |
14 |
2 |
1:20,827 |
+1 vòng |
|
19 |
Pierre Gasly |
Alpine |
16 |
1 |
1:21,433 |
+1 vòng |
|
20 |
Oliver Bearman |
Haas |
11 |
1 |
1:21,989 |
Bỏ dở cuộc đua |
Bảng điểm cá nhân sau 14 chặng
Thứ tự |
Tay đua |
Đội |
Số lần thắng chặng |
Số lần thắng Sprint |
Điểm số |
1 |
Oscar Piastri |
McLaren |
6 |
284 |
|
2 |
Lando Norris |
McLaren |
5 |
1 |
275 |
3 |
Max Verstappen |
Red Bull |
2 |
1 |
187 |
4 |
George Russell |
Mercedes |
1 |
172 |
|
5 |
Charles Leclerc |
Ferrari |
151 |
||
6 |
Lewis Hamilton |
Ferrari |
1 |
109 |
|
7 |
Kimi Antonelli |
Mercedes |
64 |
||
8 |
Alexander Albon |
Williams |
54 |
||
9 |
Nico Hulkenberg |
Sauber |
37 |
||
10 |
Esteban Ocon |
Haas |
27 |
||
11 |
Fernando Alonso |
Aston Martin |
26 |
||
12 |
Lance Stroll |
Aston Martin |
26 |
||
13 |
Isack Hadjar |
Racing Bulls |
22 |
||
14 |
Pierre Gasly |
Alpine |
20 |
||
15 |
Liam Lawson |
Racing Bulls |
20 |
||
16 |
Carlos Sainz Jnr |
Williams |
16 |
||
17 |
Gabriel Bortoleto |
Sauber |
14 |
||
18 |
Yuki Tsunoda |
Red Bull |
10 |
||
19 |
Oliver Bearman |
Haas |
8 |
||
20 |
Franco Colapinto |
Alpine |
|||
21 |
Jack Doohan |
Alpine |
Bảng điểm đội đua sau 14 chặng
Thứ tự |
Đội |
Số lần thắng chặng |
Số lần thắng Sprint |
Điểm số |
1 |
McLaren |
11 |
1 |
559 |
2 |
Ferrari |
1 |
260 |
|
3 |
Mercedes |
1 |
236 |
|
4 |
Red Bull |
2 |
1 |
194 |
5 |
Williams |
70 |
||
6 |
Aston Martin |
52 |
||
7 |
Sauber |
51 |
||
8 |
Racing Bulls |
45 |
||
9 |
Haas |
35 |
||
10 |
Alpine |
20 |
Minh Phương