Nhà văn Bảo Ninh là một trong những tên tuổi tiêu biểu của văn học Việt Nam thời kỳ Đổi Mới, nổi bật với tiểu thuyết Nỗi buồn chiến tranh. Dịp kỷ niệm 80 năm Cách mạng Tháng Tám và Quốc khánh 2/9, ông nói về chiến tranh, hòa bình và văn học.
- Dịp kỷ niệm 80 năm Cách mạng Tháng Tám và Quốc khánh 2/9, là cựu chiến binh, ông suy ngẫm gì về cái giá của độc lập, tự do?
- Năm nào, vào mùa thu Quốc khánh 2/9 và mùa xuân 30/4, tôi cũng có một chuyến vào Nam, thường bằng xe lửa, đôi khi là máy bay. Hà Nội - Sài Gòn, hai nghìn cây số. Năm nay thì lại không đi được, vì nhà tôi có việc.
Ngày nay, đi xe lửa hết ba chục giờ, còn phi cơ hai tiếng - chẳng tày một góc của giấc ngủ. Nhưng thời chúng tôi còn trẻ, tính từ lúc tiểu đoàn rời Hà Nội lên đường đi Bê tới trưa 30/4/1975, dứt điểm xong Tân Sơn Nhất, mất sáu năm trời. Từ thời các bậc đàn anh của tôi trong Sư đoàn trận đầu Plei Me giáp chiến quân Mỹ là đúng mười năm. Nếu tính từ thế hệ Cách mạng Tháng Tám nổ súng, toàn quốc kháng chiến đến ngày đất nước thống nhất cũng đằng đẵng ba mươi năm. Còn kể xa hơn nữa, từ giữa thế kỷ 19, thời ông bà chúng ta - Cần Vương chống thực dân Pháp là bao nhiêu năm?
Chỉ riêng dọc hai bên con đường xe lửa xuyên Việt, cũng hằng hà nghĩa trang liệt sĩ. Ga lớn, ga nhỏ đều từng là những địa danh của quá khứ chiến tranh. Cho nên, có thể nói rằng, trên mỗi thước vuông nơi đất nước mình, và trong từng khoảnh khắc của những năm tháng đã qua, đều có nhiều người ngã xuống hy sinh vì nền độc lập và hòa bình cho ngày hôm nay.

Nhà văn Bảo Ninh. Ảnh: Nguyễn Đình Toán
- Những dư chấn hậu chiến như "sự lạc lõng giữa thời bình" của nhân vật Kiên (trong "Nỗi buồn chiến tranh"), "mặc cảm của người trở về" (trong "Tết năm ấy, sau cuộc chiến") còn ám ảnh ông ra sao?
- Chiến tranh là cảnh ngộ mà với những ai đã trải qua, dù chỉ trong ngắn ngủi một giờ đồng hồ, cũng ước sao đời mình, đời con cháu mình và nói chung, cuộc đời đất nước mình không một lần nào nữa phải chứng kiến. Vậy nhưng lại chẳng cách nào quên đi nổi, dù là một chi tiết trong vô vàn cảnh huống. Chắc là chỉ có thể nguôi đi thôi, dịu dần theo thời gian để làm lụng, kiếm sống, sống cuộc đời mà anh em đồng đội đã hy sinh, nhường lại đó cho mình.
- Vậy điểm tựa tinh thần nào giúp ông chung sống, đi qua những nỗi đau?
- Khép lại quá khứ, hướng tới tương lai. Đó là một hiệu triệu, lời kêu gọi, nhưng cũng là lời tự nhủ của mỗi cá nhân, nhất những người đã trải qua thời gian khổ chiến tranh. Dĩ nhiên, chẳng dễ dàng gì, mà phải nhờ vào biết bao nỗ lực của mỗi cá nhân cùng cả dân tộc. Với lại, cũng nhờ vào phép màu của thời gian - đã 50 năm trôi qua sau ngày kết thúc chiến tranh và non 40 năm rồi kể từ khi bắt đầu tiến trình đổi mới đất nước.
- Ông từng cho biết viết "vì mục đích kể chuyện thời mình, thời chiến". Điều gì thôi thúc ông lựa chọn sứ mệnh đó?
- Thơ thì khác, nhưng văn xuôi, tôi nghĩ nói nôm na là sự kể chuyện. Kể ra lời và kể bằng văn bút: hồi ký, ký sự, tùy bút, truyện ngắn, tiểu thuyết, phi hư cấu hoặc hư cấu. Nhưng hư cấu dựa trên nền tảng từ chất liệu hiện thực, cuộc sống của người kể. Nhất là những quãng đời sâu đậm.
Bản thân tôi, nay đã 74 tuổi, nhưng quãng đời bộ đội ngắn ngủi chỉ sáu năm - lại là quãng đời sâu đậm và đáng nhớ nhất. Vì thế, tôi thường kể lại, tâm sự với cha mẹ, vợ con, bạn hữu, đôi khi tôi viết ra, kể lại bằng chữ.
Mà chẳng riêng gì tôi. Nếu trong gia đình, họ hàng, thân thích có một cựu chiến binh, hẳn là ai cũng thường nghe những câu chuyện từ ông ấy, nhiều khi kể đi kể lại về thời chiến. Nước mình cả nghìn năm qua liên miên chiến tranh, nên điều ấy có thể nói, cũng triền miên cả nghìn năm nay rồi.
Phật hoàng Trần Nhân Tông có câu thơ như vậy về những cựu binh chống quân Nguyên lần thứ nhất từ thời ông nội ông - vua Trần Thái Tông:
"Người lính già đầu bạc
Kể mãi chuyện Nguyên Phong"
- Trước đây, ông cho biết muốn sửa "Nỗi buồn chiến tranh" để hoàn thiện hơn. Còn hiện giờ thì sao?
- Giờ tôi nghĩ với người sáng tác thơ, văn, khi một tác phẩm đã được viết ra và xuất bản, là một phần đời, một chặng đời. Tốt xấu, hay dở gì thì sự cũng đã qua, làm sao có thể bồi đắp, sang sửa. Chỉ có thể sống tiếp và viết tiếp.
- Ông có chia sẻ gì với các nhà văn trẻ khi họ muốn viết về đề tài chiến tranh?
- Theo tôi, trong văn học không nên có khái niệm "đề tài". Cách phân loại ấy, tôi thấy khiên cưỡng và nó gây sự bó buộc, gò khuôn cho cả người viết lẫn người đọc. Bối cảnh tác phẩm thời chiến thì tác phẩm thuộc "đề tài chiến tranh", vậy chẳng lẽ viết về ngày hôm nay lại là "đề tài hòa bình"? Tiểu thuyết Tuổi thơ dữ dội của nhà văn Phùng Quán thuộc "đề tài thiếu nhi" hay "đề tài chiến tranh"?
Đề tài lịch sử, theo tôi, cũng là một khái niệm gò bó. Dù văn học và lịch sử rất mật thiết, nhưng văn chương là văn chương. Chỉ có tác phẩm văn học mà đời sống và số phận con người trong đó được thể hiện ở không gian, thời gian không trùng khít với tác giả và người đọc đương thời.
Chẳng hạn, chúng ta đọc Người đi vắng (Nguyễn Bình Phương) và Nắng Thổ Tang (Đinh Phương) đâu phải để tìm hiểu về khởi nghĩa Thái Nguyên hay Yên Bái. Chúng ta không đọc Bão táp triều Trần nhằm nghiên cứu về vương triều ấy. Bởi, ta không phải đang đọc tài liệu sử học, mà là tiểu thuyết. Chúng ta nghiền ngẫm văn bút và câu chuyện kể được hư cấu của các nhà văn như Hoàng Quốc Hải, Nguyễn Bình Phương, Đinh Phương. Họ, bằng tài năng văn học với phong cách cá nhân riêng biệt cùng sự tự tin, mạnh bạo trong mường tượng, tưởng tượng, tôn trọng hiện thực nhưng không nệ thực, đã làm sống dậy ngay trước mắt chúng ta, gần như hòa quyện vào với đương thời, những số phận con người sống cách nay cả trăm năm, cả ngàn năm.
Cũng như vậy, các nhà văn đương thời hôm nay và một mai, nếu thực tâm ham muốn, cũng hoàn toàn có thể viết hay về đời sống, số phận con người trong bối cảnh những cuộc chiến ở thế kỷ 20. Đối với độc giả, giá trị tác phẩm văn học thể hiện ở văn chương của tác giả: viết có hay không, có hấp dẫn không, chứ không phải viết về chuyện gì, về thời nào. Tôi nghĩ vậy.
Tôi nhớ, hồi đầu Đổi Mới, nhà văn Nguyễn Minh Châu, trong một bài giảng ở trường Viết văn Nguyễn Du có khuyên học viên cưỡng lại tật nệ thực. Ông nói đại ý rằng: những điều thực sự mới mẻ, thậm chí mới mẻ nhất xuất hiện trong đời sống và cả trong văn học lại thường đến từ những miền quá khứ chưa từng được biết tới, chưa từng được nghĩ đến.
Ca sĩ Tùng Dương hát "Viết tiếp câu chuyện hòa bình" tại concert "Tổ quốc trong tim", tối 10/8 tại Hà Nội. Video: HTV
Khánh Linh thực hiện